‘Thăng Long tứ trấn’ – Tứ trụ thiêng của long mạch kinh kì

‘Thăng Long tứ trấn’ – Tứ trụ thiêng của long mạch kinh kì

Trong những di tích văn hóa, lịch sử nổi tiếng ở Hà Nội không thể không nhắc đến “Thăng Long tứ trấn”. Đây là 4 ngôi đền thiêng thờ 4 vị thần trấn giữ long mạch, bảo vệ và che chở người dân ở các hướng đông, tây, nam, bắc của thành Thăng Long xưa, nay là Thủ đô Hà Nội.

“Tứ trấn” gắn liền với sự ra đời của kinh đô Thăng Long từ những năm 1010 dưới triều vua nhà Lý. Thời kỳ này, “Thăng Long tứ trấn” còn là nơi các triều vua đến dâng hương trong ngày đầu năm và là địa điểm diễn ra các lễ hội Xuân. Từ đó, truyền thống này được lưu truyền và tiếp nối cho tới tận ngày nay. Vào dịp lễ Tết hoặc ngày rằm mùng một, người dân Hà Nội cũng như du khách thập phương thường đến “tứ trấn” bái lễ, cầu xin bình an, tài lộc và may mắn.

Mỗi ngôi đền thiêng trong “tứ trấn” đều thờ 1 vị thần khác nhau, nhưng tất cả đều là võ thần chứ không phải văn thần, bởi dân gian cho rằng, người khai sáng Thăng Long – vua Lý Thái Tổ – vốn là một võ tướng.

1. Trấn Đông – đền Bạch Mã

thang long tu tran tu tru thieng cua long mach kinh ki - 1
Ảnh: Internet

Đền Bạch Mã được xây dựng từ năm 866, thờ thần Long Đỗ – vị thần bảo hộ, trấn giữ hướng Đông của kinh thành Thăng Long. Dân chúng đều tin ngài là vị thần thiêng, được người Thăng Long xưa rất tôn sùng, kính phục. Xưa kia, đền Bạch Mã thuộc huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay là số 76 – 78 phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Theo truyền thuyết, thần Long Đỗ là vị thần đã đánh bại các pháp thuật của Cao Biền – một viên quan đô hộ thời Bắc thuộc.

Tương truyền, sau khi dời đô ra Đại La, đổi tên thành Thăng Long, vua Lý Thái Tổ tiến hành đắp lũy, xây thành để phòng giặc ngoại xâm. Nhưng thành xây đến đâu thì sập đến đó. Nhà vua bèn tới đền thờ thần Long Đỗ cầu xin được phù trợ.

Đêm đó, nhà vua mơ thấy thần Long Đỗ hiện lên căn dặn: cứ xây theo dấu chân ngựa thì thành sẽ vững. Vừa dứt lời, một con ngựa trắng từ trong đền đi ra, bước từ hướng Tây qua hướng Đông một vòng rồi biến mất. Ngày hôm sau, nhà vua cho xây thành theo dấu chân ngựa trong mộng, quả nhiên, thành Thăng Long không bị sụt lún nữa. Để cảm tạ sự trợ giúp của thần Long Đỗ, vua Lý Thái Tổ ban sắc phong thần làm thành Hoàng bảo vệ cho Thăng Long. Nhà vua cũng cho tạc một bức tượng ngựa trắng để thờ trong đền và gọi ngôi đền là “Bạch Mã linh từ”. Từ đó, đền thờ thần Long Đỗ được gọi là đền Bạch Mã.

Hội Đền Bạch Mã được tổ chức vào ngày 12 và 13 tháng 2 âm lịch hằng năm, với những nghi thức tế lễ cùng một số hoạt động văn hóa khác như: hát ca trù, hát chèo, ngâm thơ, múa kiếm, múa đao…

Đền Bạch Mã không chỉ là một chốn linh thiêng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Hà Nội mà còn là di tích chứa đựng nguồn tư liệu quý quý để tìm hiểu về lịch sử Thăng Long – Hà Nội. Ngôi đền này được Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia ngày 12/12/1986.

2. Trấn Tây – đền Voi Phục

thang long tu tran tu tru thieng cua long mach kinh ki - 2
Ảnh: Internet

Đền Voi Phục (còn gọi là đền Thủ Lệ hay đền Linh Lang) được xây dựng vào năm 1065 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Linh Lang Đại Vương. Ngày nay, đền Voi Phục thuộc đường Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình.

Đền Voi Phục thờ một nhân vật lịch sử có thật. Ông vốn là hoàng tử Hoằng Chân, con thứ tư của vua Lý Thái Tông, mẹ là Hoàng phi họ Nguyễn (thường gọi là Hạo Nương, người làng Đồng Đoàn, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây – nay là làng Bồng Lai, xã Hồng Hà, Đan Phượng, Hà Nội). Tương truyền, thủa thiếu thời, Hoằng Chân là người văn võ song toàn. Ông cũng là người có công giúp vua diệt giặc Tống.

Truyền thuyết kể rằng, khi giặc Tống sang xâm lược, ông đã nhờ sứ giả tâu với vua chuẩn bị cho một lá cờ hồng, một cây giáo dài, một thớt voi để đi đánh giặc dù lúc này tuổi còn nhỏ. Nhận được đồ vua ban, Hoằng Chân bèn thét lớn: “Ta là thiên tướng”. Con voi nghe tiếng thét bèn phủ phục xuống để hoàng tử ngồi lên. Do đó, đền còn được gọi là đền Voi Phục.

Sau chiến thắng, bỗng nhiên hoàng tử lâm bệnh, vua cha đến thăm, Hoằng Chân cho biết mình không phải là người trần rồi biến thành con giao long trườn xuống hồ Dâm Đàm (tên cũ của Hồ Tây) và biến mất. Vua cho lập đền, phong là “Thượng đẳng thần” để dân chúng thờ phụng.

Ngày nay, ở cổng đền Voi Phục còn nguyên 2 bức tượng voi phủ phục hai bên. Trong đền còn lưu giữ tảng đá có vết lõm, tương truyền đó là dấu vết hoàng tử nằm gối đầu lên rồi hóa thành giao long và trườn xuống hồ. Trải qua những biến cố của lịch sử, chiến tranh và nhiều lần trùng tu, đến nay kiến trúc của đền đã thay đổi khá nhiều so với kiến trúc ban đầu.

Đền được Bộ VHTT&DL xếp hạng danh mục di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia ngày 28/4/1962.

3. Trấn Nam – đền Kim Liên

thang long tu tran tu tru thieng cua long mach kinh ki - 3
Ảnh: Internet

Đền Kim Liên (còn gọi là đền Cao Sơn, đình Kim Liên) nay thuộc phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội. Đền thờ Cao Sơn đại vương, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16 – 17.

Tương truyền, Cao Sơn là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ, đã có công giúp Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh, đem lại bình yên, ấm no cho dân chúng. Sử sách còn ghi rằng, năm 1510, khi vua Lê Tương Dực cầm quân dẹp loạn đi qua đây, đã vào khẩn cầu thần phù trợ. 10 ngày sau, chiến sự thắng lợi, vua cho xây dựng đền ở Thăng Long bấy giờ để tưởng nhớ ơn thần.

Trải qua bao biến cố lịch sử, ngày nay đền Kim Liên không còn nguyên dạng (toàn bộ Nhà Bái đường đã bị phá hủy), chỉ còn lại Nhà Hậu đường ba gian, tam quan, cổng gạch và hai giải vũ. Năm 2000, đền được tôn tạo, phục chế lại như ngày nay. Đền Kim Liên được Bộ VHTT&DL xếp hạng danh mục di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia ngày 09/01/1990.

Trong đền hiện đang lưu giữ tấm bia đá “Cao Sơn đại vương thần từ bi minh” ca ngợi công lao của vị thần này và 39 đạo sắc phong cho thần.

Di sản quý báu của đền đặc biệt còn tấm bia đá đồ sộ mang tên “Cao Sơn Đại vương Thần từ Bi minh” cao 2,34m, rộng 1,57m, dày 0,22m. Tấm bia ghi về thần tích và bài minh ca ngợi Thần do Sử thần Lê Tung soạn năm Canh Ngọ – Hồng Thuận thứ 3 (1510) và được dựng ngày 1 tháng Trọng Thu năm Nhâm Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33 (1772).

Lễ hội đền Kim Liên mở vào ngày 16/3 âm lịch hàng năm.

4. Trấn Bắc – đền Quán Thánh

thang long tu tran tu tru thieng cua long mach kinh ki - 4
Ảnh: Internet

Trấn giữ ở phía bắc là đền Quánh Thánh (còn gọi là đền Trấn Vũ) thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ. Đền được xây dựng từ thế kỷ 10. Ngày nay, đền Quán Thánh nằm ở ngã tư đường Thanh Niên với đường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Đền được Bộ VHTT&DL xếp hạng danh mục di tích lịch sử – văn hóa ngày 28/4/1962.

Thánh Trấn Vũ là một hình tượng kết hợp nhân vật thần thoại Việt Nam (vị Thánh đã giúp An Dương Vương trừ ma trong khi xây dựng thành Cổ Loa) và nhân vật thần thoại Trung Quốc Chân Võ Tinh quân (vị Thánh coi giữ phương Bắc).

Theo truyền thuyết, Huyền Thiên Trấn Vũ là thần cai quản phương Bắc giúp dân trừ tà ma, yêu quái; trừ rùa thành tinh (đời Hùng Vương 14); trừ cáo chín đuôi ở Tây Hồ; giúp An Dương Vương trừ tinh gà trắng xây thành Cổ Loa; diệt hồ ly tinh trên sông Hồng đời vua Lý Thánh Tông… Đến thời nhà Lê, các vua cũng thường đến đây để cầu mưa mỗi khi có hạn hán.

Trong đền có bức tượng Trấn Vũ đúc bằng đồng đen năm 1667, cao 3,69 m, nặng khoảng 4 tấn. Tượng có hình dáng một đạo sĩ ngồi, y phục gọn gàng nhưng tóc lại bỏ xõa, chân không mang giày, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm thần có rắn quấn quanh và chống lên lưng rùa. Tượng Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo duy nhất tại Việt Nam, khẳng định nghệ thuật đúc đồng và tạc tượng của người Hà Nội cách đây ba thế kỷ.

Ngày lễ tết cũng như ngày thường, người dân thường đến xoa chân thần Trấn Vũ để xin lộc.

Đền Quán Thánh tổ chức chính hội vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm.

“Thăng Long tứ trấn”  là nét đẹp của đời sống văn hóa, tâm linh Việt. Hơn hết, đây còn là những biểu tượng về đạo lý sống và sự đền ơn đáp nghĩa của dân tộc Việt, là địa chỉ “đỏ” để tìm hiểu, khám phá lịch sử, kiến trúc, văn hóa Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến.